Thứ Năm, 28 tháng 10, 2010

Không có biểu tượng nào về hòa bình vĩ đại hơn một di sản

Tổng Giám đốc Unesco:
“Không có biểu tượng nào về hòa bình vĩ đại hơn một di sản”
(Dân trí) - “Không có biểu tượng nào về hòa bình và hiểu biết lẫn nhau lại vĩ đại hơn một di sản. Thế giới cần các biểu tượng về đối thoại và khoan dung...”, TGĐ Unesco, bà Irina Bokova nói sau khi trao bằng Di sản văn hoá thế giới khu Trung tâm hoàng thành Thăng Long.
Tổng giám đốc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO), bà Irina Bokova mở đầu bài phát biểu với những lời lẽ rất Việt Nam: “Hôm nay tôi vô cùng vinh hạnh được mặc chiếc áo dài rất đẹp đẽ, truyền thống của Việt Nam cùng các bạn kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Hôm nay, trái tim của chúng ta cùng hòa một nhịp đập và tôi tin rằng, thần Kim Quy và các cụ Rùa cũng đang lắng nghe chúng ta từ hồ Hoàn Kiếm, một biểu tượng quý giá về hòa bình của mọi người dân Việt Nam”.
Bà Irina Bokova cho rằng, Unesco luôn có mối quan hệ chặt chẽ với Hà Nội. Năm 1999 Unesco đã trao tặng cho Hà Nội giải thưởng Thành phố vì hòa bình, Đại hội đồng Unesco cũng đã thông qua nghị quyết kêu gọi các nước trên thế giới cùng với Việt Nam kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chí Minh và Đại lễ ngày hôm nay.
Trở lại với sự kiện lớn của Hà Nội và cả nước, bà nhấn mạnh: “Đại lễ này thể hiện sự kính trọng sâu sắc của chúng ta với tổ tiên, những người có công dựng nước và giữ nước. Việc đầu tư công sức và chỉnh trang đường phố và sự có mặt của người dân trong đại lễ hôm nay là minh chứng cho sự gắn bó của các bạn với quá khứ huy hoàng và xem đó như ngọn đuốc soi đường cho tương lai”.
“Rất ít nước trên thế giới có thể giữ được ký ức sống động về việc lập đô từ một ngàn năm trước mà không bị mai một về thời gian. Tôi vô cùng ngưỡng mộ các bạn về điều này”, bà Irina Bokova tiếp tục.
Theo bà Irina Bokova, việc Trung tâm hoàng thành Thăng Long được công nhận là một di sản thế giới là một vinh dự, đồng thời cũng mang đến những cam kết và trách nhiệm mới: “Kể từ ngày hôm nay các bạn có trách nhiệm với nhân loại, quảng bá bảo vệ và truyền lại di sản này cho các thế hệ tương lai, cho giới trẻ, để rồi đến lượt họ, họ lại kể cho con cháu họ về vua Lý Thái Tổ với bức tượng đài đang hiện diện với chúng ta ở đây”.
“Không có biểu tượng nào về hòa bình và hiểu biết lẫn nhau lại vĩ đại hơn một di sản. Thế giới cần các biểu tượng về đối thoại và khoan dung, đặc biệt trong bối cảnh năm nay là năm nay là năm quốc tế của liên hợp quốc về tình hữu nghị giữa các nền văn hóa do Unesco khởi xướng”, bà Irina Bokova nhấn mạnh.
Theo bà, Hoàng thành Thăng Long là minh chứng cho 10 thế kỷ giao lưu và giao thoa văn hóa từ khắp nơi ở châu Á. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc chúng ta rằng, bản thân Việt Nam được sinh ra từ sự giao thoa giữa các dân tộc phương Đông và phương Tây.
Tổng Giám đốc Unesco cũng cho rằng, những nỗ lực của đã biến Việt Nam thành một quốc gia của tương lai, một đối tác quan trọng và được coi trọng trên trường quốc tế, là một trong 8 quốc gia thí điểm của Liên hiệp quốc, Việt Nam chính là một điển hình về cải cách hợp tác quốc tế.
Tận mắt chứng kiến những thay đổi của Hà Nội, Việt Nam, bà Irina Bokova đánh giá: “Bất cứ ai đến Việt Nam cũng choáng ngợp bởi nền kinh tế năng động và những công trình xây dựng, với những con đường, những cây cầu, những tòa nhà chọc trời mọc lên nhanh chóng. Các bạn đang đảm nhận một trọng trách đầy thách thức trên cương vị Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, đảm bảo sự thịnh vượng cho một khu vực được coi là tương lai của thế giới. Điều này cũng khẳng định sự vượt trội chung của các bạn”.
Bà Irina Bokova cho biết, Unesco và Asean có quan hệ hợp tác lâu dài và gắn bó. Hai bên đang cùng nhau dự thảo một thỏa thuận nhằm tăng cường quan hệ trên 3 lĩnh vực: giáo dục, biến đổi khí hậu và đa dạng văn hóa. Đây là những lĩnh vực mà theo bà là cốt yếu cho phát triển bền vững.
“Thay mặt cho tổ chức Unesco và nhân danh cá nhân tôi gửi tới các bạn tình cảm hữu nghị và lòng kính trọng. Các bạn hãy giữ gìn di sản của mình. Chúc thiên niên kỷ mới mang đến cho các bạn hòa bình và thịnh vượng”, bà Irina Bokova kết lại bài phát biểu.

 Tiếp sau đó, Tổng Giám đốc UNESCO, bà Irina Bokova đã  trao bằng Di sản văn hoá thế giới khu Trung tâm hoàng thành Thăng Long cho lãnh đạo Thành phố Hà Nội.
 Bà Irina Bokova cho biết bà rất vinh hạnh được mặc chiếc áo dài cùng dự Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long- Hà Nội.
 “Trái tim của chúng ta cùng hoà một nhịp đập và Thần Kim Quy và Cụ Rùa cũng đang lắng nghe chúng ta”, bà Irina Bokova nói.
Theo bà, Unesco luôn có mối quan hệ chặt chẽ với Việt Nam, Unesco đã trao cho Hà Nội danh hiệu thành phố vì hoà bình và cùng Việt Nam tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh…
“Trung tâm hoàng thành được công nhận là di sản là một vinh dự nhưng cũng mang đến trách nhiệm mới cho các bạn. Kể từ ngày hôm nay, các bạn có trách nhiệm gìn giữ quảng bá cho nhân loại. Không có biểu tượng nào về hoà bình lại hơn một di sản...”, bà Irina Bokova nhấn mạnh.
Bà Irina Bokova đánh giá, nỗ lực của Việt Nam đã biến đất nước thành một đối tác quan trọng trên trường quốc tế. Bất kỳ ai đến Việt Nam cũng choáng ngợp vì sự phát triển với những cây cầu, con đường, toà nhà mọc lên khắp nơi.
Bà Irina Bokova gửi tới người dân Việt Nam lời chúc tình hữu nghị và không quên nhắn nhủ, hãy giữ gìn di sản.

Các Mác - nhà tiên tri vĩ đại


Các Mác - nhà tiên tri vĩ đại
Trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, tự nhiên nhiều người nghĩ tới Các Mác (Karl Marx), triết gia, nhà kinh tế vĩ đại thế kỷ XIX, tác giả bộ Tư bản nổi tiếng, trong đó có nhiều luận điểm rất thích hợp dùng để phân tích cuộc khủng hoảng hiện nay.
Giáo sư Leo Panitch ở trường đại học York tại Toronto, Canada, biên tập viên tờ Socialist Register vừa có bài viết đăng trên tạp chí Chính sách ngoại giao (Foreign Policy) của Mỹ, số 5-6 năm 2009 dưới đầu đề Mác hoàn toàn hiện đại (Thoroughly Modern Marx). Chúng tôi xin trích giới thiệu cuốn sách này. Các ghi chú trong ngoặc và các đầu đề phụ là của người dịch.
Đi trước thời đại
Khủng hoảng kinh tế một lần nữa kích thích mọi người quan tâm đến Các Mác. Lượng tiêu thụ bộ sách Tư bản (tiếng Đức Das Kapital) tăng vọt; riêng một nhà xuất bản ở Đức năm 2008 bán được trên 10 nghìn cuốn, so với hơn 100 cuốn bán được năm 2007.
Điều đó đánh dấu cuộc khủng hoảng quy mô rộng và ảnh hưởng lớn lần này đã khiến chủ nghĩa tư bản toàn cầu và các “vệ sĩ” của nó rơi vào một cuộc khủng hoảng hình thái ý thức.
Thế nhưng cùng lúc niềm tin vào chủ nghĩa tự do mới (neoliberal orthodoxies) đã tan vỡ, thì tại sao chủ nghĩa Mác bây giờ sống lại ?
Trước hết, Mác đi trước thời đại của mình rất xa, ông đã dự đoán được sự toàn cầu hóa thành công của chủ nghĩa tư bản trong mấy chục năm gần đây. Mác dự đoán chính xác một số yếu tố quan trọng gây ra cuộc khủng hoảng hiện nay: trong một thế giới gồm các thị trường cạnh tranh nhau, nền sản xuất hàng hóa và sự đầu cơ tài chính tiền tệ, những gì ông gọi là “mâu thuẫn” chính là thứ cố hữu bẩm sinh của thế giới đó. 
Mác hoàn tất bộ tác phẩm lớn của mình vào lúc cuộc đại cách mạng Pháp và cuộc chiến tranh độc lập ở Mỹ mới kết thúc chưa đầy một trăm năm (bộ Tư bản tập I xuất bản năm 1867; hai tập sau do Ăng-ghen chỉnh lý xuất bản năm 1885 và 1894, khi Mác đã qua đời), nhưng ông đã dự kiến trước được sự run rẩy của công ty AIG và Bear Stearns xảy ra hơn một thế kỷ rưỡi sau.
Ông nhìn thấy rất rõ cái ông gọi là “tác dụng cách mạng nhất” của giai cấp tư sản phát huy được trong lịch sử loài người – các nhà tư sản ấy là bậc tiền bối của những chủ ngân hàng và cán bộ lãnh đạo cấp cao các công ty ở phố Wall Street hiện nay.
Đúng như Mác viết trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Nếu giai cấp tư sản không thường xuyên cải cách công cụ sản xuất, từ đó không làm cho quan hệ sản xuất – cũng tức là toàn bộ mối quan hệ xã hội, thường xuyên cải cách, thì giai cấp đó không thể sống còn.”
Song dù là ở thời đại Mác hay thời đại chúng ta, Mác đều không phải là người thúc đẩy công cuộc toàn cầu hóa tư bản. Nhưng Mác cho rằng “Nhu cầu không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm đã thúc đẩy giai cấp tư sản đi tới khắp nơi trên toàn cầu”, và thấy được sự phát triển chủ nghĩa tư bản sẽ không thể tránh khỏi dẫn tới việc “mở đường cho những cuộc khủng hoảng sâu sắc rộng khắp hơn”.
Mác hiểu rõ các hành vi đầu cơ sẽ gây ra khủng hoảng và làm cho nó xấu đi, các hành vi ấy có sức phá hoại rất lớn toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa ông còn nhìn rõ biện pháp gọi là thông qua cải cách kiểu tiệm tiến (incremental reform) để mãi mãi tránh khỏi khủng hoảng chẳng qua là một ảo tưởng chính trị.
Như mọi cuộc cách mạng, Mác mong muốn trong đời mình sẽ nhìn thấy trật tự cũ bị lật đổ. Nhưng chủ nghĩa tư bản còn có sức sống khá mạnh mẽ; cho dù Mác có sức nhìn thấu suốt, ông chỉ có thể nhìn thoáng qua thấy những sai lầm và đi đường vòng của mấy thế hệ giai cấp tư sản trong tương lai. Nhưng lời của Mác hôm nay vẫn rất có ý nghĩa.
Chủ nghĩa tư bản là “Thầy phù thủy” không kiểm soát nổi ma quỷ
Nếu Mác nhìn thấy sự suy thoái kinh tế hiện nay, nhất định ông sẽ muốn trình bày nguyên lý các khiếm khuyết bẩm sinh của chủ nghĩa tư bản là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng hiện nay. Ông sẽ hiểu rõ sự phát triển lĩnh vực tài chính tiền tệ như chứng khoán hóa và các sản phẩm thứ sinh của tiền tệ đang làm cho thị trường gặp đầy những rủi ro về sự hòa nhập kinh tế.
Mấy chục năm nay, hệ thống tài chính toàn cầu có ảnh hưởng lớn và không ổn định đã có đóng góp cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu, song nó cũng tạo ra một loạt các bong bóng tiền tệ không tránh khỏi. Trong đó bong bóng nguy hiểm nhất thì xuất hiện trong ngành nhà đất Mỹ. Do ngành này phát huy tác dụng nòng cốt trong lĩnh vực duy trì nhu cầu tiêu dùng và thúc đẩy thị trường tài chính quốc tế nên sự nổ vỡ bong bóng đã gây tác động sâu sắc trên toàn thế giới.
Không nghi ngờ gì nữa, Mác hẳn sẽ cho rằng cuộc khủng hoảng này là một thí dụ hoàn mỹ chứng tỏ chủ nghĩa tư bản giống như một “thầy phù thủy (sorcerer), song lại bất lực trong việc điều khiển bày ma quỷ do mình gọi ra.”
Tuy rằng chúng ta hiện đang lún sâu vào cảnh khốn khó nhưng Mác không hề có ảo tưởng với quan điểm cho rằng bản thân các khó khăn kinh tế sẽ có thể mang lại sự thay đổi. Mác hiểu rất rõ: chủ nghĩa tư bản sản sinh và nuôi dưỡng sự cô lập của xã hội. Ông viết: Trong hệ thống đó, “ngoài mối quan hệ lợi hại trắng trợn và sự trao đổi tiền mặt tàn nhẫn ra, giữa người với người chẳng còn bất kỳ mối liên hệ nào khác”.
Trước những khủng hoảng cá nhân như công nhân bị nhà máy sa thải, sự cô lập xã hội gây ra bởi tính vị kỷ sẽ dẫn tới trạng thái tiêu cực của mọi người. Tình trạng cô lập xã hội đó cũng ngăn cản việc tập hợp những công dân hành động tích cực, tư tưởng giác ngộ để áp dụng các phương thức cấp tiến nhằm thay thế chủ nghĩa tư bản.
Trước hết Mác sẽ hỏi làm thế nào để khắc phục tình trạng tiêu cực xã hội đó. Mác cho rằng công đoàn và chính đảng công nhân khi ấy đã tiến lên một bước. Bởi vậy trong Tư bản ông viết: “Mục tiêu trước mắt” là “tổ chức những người vô sản thành một giai cấp” và “nhiệm vụ quan trọng” của giai cấp này là “giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh cho dân chủ”.
Tìm kiếm các phương án thay đổi chủ nghĩa tư bản
Song hiện nay còn chưa xuất hiện quan điểm hăng hái thực hiện biến đổi. Khoảng trống này có lẽ là điều làm Mác đau đầu hơn cả. Tại Mỹ gần đây có nhiều kiến nghị thu hút sự chú ý của dư luận bị châm biếm là “chủ nghĩa xã hội”; nhưng đó chẳng qua là các kiến nghị ấy tiến bộ hơn so với các đề nghị của phái tả trong đảng Dân chủ mà thôi.
Điều mỉa mai là phương án cấp tiến nhất, được nhiều người nói tới nhất lại là phương án của một người vốn không theo chủ nghĩa Mác. Đó là nhà kinh tế Williem Buiter ở trường Kinh tế Luân-đôn (London School of Economics), cựu thành viên của Ủy ban Chính sách Tiền tệ thuộc Ngân hàng England.
Buiter đề nghị chuyển toàn bộ ngành tài chính tiền tệ thành một ngành phục vụ công ích (public utility). Ông cho rằng không có lý do nào để các ngân hàng tiếp tục tồn tại như những tổ chức kiếm lời của tư nhân.
Đề nghị này dường như đáp ứng yêu cầu của Mác viết trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “tập trung mọi khoản tín dụng vào ngân hàng nhà nước (centralization of credit in the banks of the state)”. Đối với Mác, việc triệt để thay đổi hệ thống ngân hàng sẽ nâng cao ý nghĩa quan trọng của việc giai cấp công nhân giành thắng lợi trong cuộc “đấu tranh dân chủ (the battle of democracy)”.
“Từ tài chính hóa nền kinh tế tới xã hội hóa ngành tài chính tiền tệ là một bước nhỏ của các luật sư, song lại là một bước tiến lớn của nhân loại” – Buiter viết.
Rõ ràng, để có được những chủ trương cấp tiến, bạn không cần phải là một nhà mác-xít. Song bạn cần nhận thức được là sự thay đổi cấp tiến không thể bắt đầu từ “một bước nhỏ của các luật sư”. Bạn cần có một chút tư duy của chủ nghĩa Mác.
Các Mác sẽ bảo bạn là nếu không dựa vào các phong trào cấp tiến và đảng phái để phát triển lực lượng quần chúng thì sẽ không thực hiện được việc xã hội hóa ngành tài chính tiền tệ (nguyên văn: sẽ rơi trên một mảnh đất cằn cỗi).
Về cơ bản, trong vài thập niên tới các đảng phái (ở Mỹ) sẽ không nghiêm chỉnh thảo luận vấn đề có nên dùng phương thức cấp tiến để thực hiện việc dân chú hóa nền kinh tế hay không. Còn chúng ta thì cho tới nay vẫn cứ trả giá cho sự bài bác những ý tưởng đó. Mác từng phân tích các nhân tố phi lý tính trong lô-gich cơ bản bắt rễ từ thị trường tư bản chủ nghĩa, mà giờ đây các nhân tố đó đang tái xuất hiện.
Để duy trì cán cân thu chi, tất cả các nhà  máy và công ty đều thải lao động và giảm lương; mà tình trạng công việc không ổn định thì sẽ làm giảm nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đúng như Mác nói, hành vi lý tính vi  mô sẽ gây ra kết quả xấu nhất cho nền kinh tế vĩ mô. Giờ đây chúng ta đã thấy là việc coi nhẹ (lý luận của) Mác mà chỉ tin vào “bàn tay vô hình” của Adam Smith, sẽ đưa người ta đến tình huống (khó khăn) như thế nào.
Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay không chỉ hé lộ những tư duy phi lý tính trên lĩnh vực tài chính. Chẳng hạn Tổng thống Mỹ Obama đề nghị dùng việc mua bán hạn ngạch tín dụng các-bon (carbon credits) làm biện pháp giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu: các doanh nghiệp phù hợp tiêu chuẩn thải có thể bán hạn ngạch tín dụng các-bon cho các doanh nghiệp không đạt tiêu chuẩn đó. Nghị định thư Kyoto kêu gọi xây dựng hệ thống trao đổi tương tự giữa các quốc gia với nhau.
Nhưng cả hai đề án này đều có một vấn đề tồn tại nguy hiểm: chúng đều phụ thuộc vào thị trường các sản phẩm thứ sinh yếu đuối dễ thay đổi, bẩm sinh dễ chịu ảnh hưởng của sự thao túng của nhà nước và sự sụp đổ của tín dụng.
Mác sẽ kiên trì nói việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như vấn đề khí hậu đòi hỏi chúng ta phải phá bỏ tư duy thị trường tư bản chủ nghĩa chứ không phải là sử dụng nhà nước để tăng cường kiểu tư duy ấy.
Nhưng việc xây dựng các thể chế mới và phát động các phong trào mới nhằm tạo ra sự thay đổi thì phải bắt đầu từ trong nước. Mác kêu gọi "Lao động toàn thế giới đoàn kết lại" và khẳng định rằng giai cấp công nhân mỗi nước đều “trước tiên phải thanh toán giai cấp tư sản trong nước mình (settle things with their own bourgeoisie)”.
Các biện pháp thay đổi thể chế kinh tế, chính trị và luật pháp hiện có “dĩ nhiên cần tùy theo tình hình mỗi nước”. Song dù trong tình hình nào, Mác đều sẽ nhấn mạnh phải tạo ra sự thay đổi tận gốc, trước hết mọi người phải mạnh dạn suy nghĩ lại.
Khả năng xảy ra tình hình nói trên như thế nào? Ngay cả khi cuộc khủng hoảng tài chính đang hút cạn máu của nhân dân nhiều nước, khiến cho dân chúng khắp nơi cảm thấy bất ổn, hơn nữa hệt như trước kia, nhân dân lao động bình thường vẫn chịu sự bóc lột và áp bức nặng nề, do đó họ không thể đưa ra sự phán đoán chính xác.
Giả thử Mác còn sống tới bây giờ, ông sẽ không trình bày chính xác cuộc khủng hoảng hiện nay bao giờ sẽ kết thúc và kết thúc bằng cách nào. Nhưng Mác hẳn sẽ vạch ra cuộc khủng hoảng đó là một bộ phận không thể tách rời trong sự tồn tại năng động của chủ nghĩa tư bản.
Các nhà chính trị cải lương cho rằng họ có thể loại bỏ được sự bất bình đẳng giai cấp cố hữu, loại bỏ khủng hoảng chu kỳ liên tục trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Chính họ mới là những nhà không tưởng đích thực của thời đại chúng ta.
Nếu như cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay nói lên một vấn đề gì, thì đó là: Các Mác là nhà hiện thực vĩ đại (Marx was the greater realist).    

Tại sao Đường Tăng vô dụng lại trở thành người lãnh đạo, còn Tôn Ngộ Không tài phép thì lại là kẻ làm công?

Tại sao Đường Tăng vô dụng lại trở thành người lãnh đạo, còn Tôn Ngộ Không tài phép thì lại là kẻ làm công? 4 điều rút ra từ bộ phim Tâ...