Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2015

Nhớ lại bài vịnh về con chó


Có con cẩu nhà bên, nó thấy Mình mua một cục xương về cho chó nhà ăn, nó gen gét sủa ầm ĩ lên “gâu gâu” và làm đơn kiện rằng tại sao nó lại không được cục xương như thế. Mình thì chẳng gét gì nó, bởi nó là chó mà. Nếu nó cắn hay sủa bậy thì cũng định cho nó một trận, nó sủa bậy đinh tai, nhức óc, rồi cứ gâu gâu nghe cũng bực lắm, song cũng chẳng thèm chấp chó làm gì cả, vì chó đâu có ý thức. Với lại nó chỉ cắn trộm thôi, khi mình ra thì nó lại lủi mất rồi lại tiếp tịuc sủa. Thôi thì mang mấy câu sưu tầm của các Cụ xưa vịnh tếu táo về nó vậy:

Quanh quanh đằng đít lại đằng đầu,
Hễ thấy ai vào cắn gâu gâu
Ăn hết của thơm cùng của thối
Trăm năm chẳng được chén trà tàu.

Đũa mốc mà chòi mâm son

Đũa mốc mà chòi mâm son theo nghĩa của ngày xưa là muốn nói là không môn đăng hộ đối hay là sự chênh lệnh lớn và không hề cân xứng giữa hai bên. Nhưng mà trong thời đại hiện nay câu nói đó quả là lạc hậu quá rùi.
Câu này ngày nay chỉ những kẻ mình chẳng ra gì, quèn thôi nhưng lại hay sĩ hão, thấp bé nhẹ cân, óc như quả nho mà cứ tưởng mình to lớn. Vì vậy ngày nay loại đó cũng được xép vào hạng đũa mốc mà chòi mâm son là như vậy.


Lời thú tội của Kim Ki Tae – sĩ quan Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam

Một khi đã bắn một thường dân vô tội, chúng tôi không thể không giết tất cả bọn họ. Bởi vì một người còn sống sót có thể làm nhân chứng về những việc làm sai quấy của chúng tôi, tôi phải ra lệnh như vậy với tư cách là một đại úy.
    Bài viết của tác giả Hwang Sang Cheol đăng tải trên tạp chí The Hankyoreh21 của Hàn Quốc
Korean-Soldier
Ai giết ai?
Binh lính Đại Hàn giết quá nhiều người Việt Nam, nhưng chẳng có người lính Đại Hàn nào thú nhận là có sự tham dự của họ trong những cuộc chém giết này.
Có phải mọi chứng cứ của các nạn nhân thường dân Việt Nam của việc thảm sát là không đúng sự thật?
Và bài tường thuật trong tám tháng của tạp chí Hankyoreh21 không gì khác hơn là sự phóng đại?
Và không một cựu chiến binh can đảm nào sẽ kể lại câu chuyện thật của những gì đã xảy ra?
Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu Kim Ki Tae, một đại tá đã về hưu 65 tuổi, người từng là đại úy lính thủy quân lục chiến nằm ở tuyến đầu trong một năm, trong cuộc Chiến tranh Viêt Nam .
Ông chia sẻ với chúng ta tất cả kinh nghiệm của mình trong suốt thời gian quân ngũ ở nơi đấy. Ông tiết lộ các câu chuyện tàn ác của lính Đại Hàn là sự thật
Ngay cả chúng tôi, ngay chính người tường thuật về sự tàn ác, không khỏi nghi ngờ sự thật này.
“Có phải quân lính Đại Hàn thật sự giết hại những thường dân vô tội Việt Nam một cách có hệ thống?”
“Có khả năng quân lính Đại Hàn bắn những người phụ nữ không vũ trang và con cái của họ không?”
Kim Ki Tae, một cựu chiến binh của cuộc chiến Việt Nam, đã thảo luận tất cả vấn đề này với thái độ điềm tĩnh và chân thành. “Tôi nhận được lệnh giết những thường dân Việt Nam và cũng chính tay tôi bắn họ trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam”
Chúng tôi gặp ông ta trong một buổi tổ chức họp mặt kỷ niệm năm thứ 25, ngày chấm dứt cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Tạp chí The Hankyoreh21 sẵn sàng chia sẻ với thế giới những chứng cứ chân thật của ông Kim.
Một hố bom ở Việt Nam. Kim nhớ đến hố bom được tạo ra từ chiến đấu cơ ném bom F4 của Mỹ để lại.
Một hố bom khổng lồ rộng khoảng 7 đến 8 m và sâu khoảng 3 hay 4m. Ông ta cho rằng quả bom được làm ra (có trọng kượng) khoảng 500 cân Anh (227 kg).
Tiếng nổ của bom phải xé toạc màng nhĩ và quét sạch mọi thứ trong vòng bán kính 5 dặm (# 8 km). Ông ta nói rằng ông không thể nào quên việc gì đã xảy ra trong hố bom ấy.
Khi trời mưa, trong hố bom…
Vào lúc 2 giờ chiều ngày 14 tháng Mười một năm 1966, Kim đang đứng trong cánh đồng lúa, gần một ngọn đồi phía tây Sơn Tịnh, Quãng Ngãi, miền Trung Việt Nam. Vào thời điểm này, Kim Ki Tae 31 tuổi, là đại úy của Đại đội 7, Tiểu đoàn 2 của Đơn vị Rồng Xanh, gặp phải phiền phức. Một trong những người chỉ huy trung đội yêu cầu anh ta canh chừng những người Việt Nam đang bị bắt giữ. Kim thấy 29 người đàn ông Việt Nam, có lẽ vào khoảng 20-30 tuổi. Tất cả tay của họ bị trói lại với nhau bằng dây thừng. Kim cảm nhận tất cả bọn họ đều sợ chết khiếp. Những thanh niên Việt Nam bị bắt trong cuộc lùng sục các hầm hố sáng hôm đó. Dù rằng cuộc lục soát đã kỹ càng, đơn vị của Kim đã thất bại trong việc phát hiện quân lính (Việt Cộng) trong những hầm hố nơi mà họ phát hiện ra những thanh niên Việt Nam. Người của Kim đang thực hiện cuộc hành quân cuối cùng trong giai đầu của kế hoạch Mắt Rồng (Yong Anh).
Đại đội của Kim cách xa Quốc lộ 1 khoảng 7-8km. Mỗi khi hoàn tất công tác , Kim dự định trước tiên là đưa những người Việt Nam bị bắt sang trại tập trung, nhưng Đại đội 7 nhận được lệnh khẩn cấp đi giải cứu Đại đội 6, Đại đội này đang bị du kích tấn công. Họ không có thời gian để đưa những người bị bắt đến trại tập trung. Kim mô tả tình huống một cách đơn giản bằng cách nói “Không có cách nào khác!” Tất cả lính tráng của ông ta đang ở trong tình huống cam go. Cuộc hành quân truy lùng sáu ngày trong rừng nhiệt đới đã biến quân phục của họ tả tơi và làm cho họ giận dữ, Kim ra lệnh ngắn gọn. “”Mang những người Việt Nam đi chỗ khác.” 29 người đàn ông Việt Nam với tay bị trói, những người không có ý niệm về số phận của mình sẽ ra sao, bị tống xuống hố bom. Tiếng súng của lính Đại Hàn vang lên “bang, bang, bang”, và tiếng nổ của lựu đạn ném tay xé toạc không gian. Kim có thể nghe tiếng rên rĩ của những người bị thương và mùi của máu. Kim ra lệnh lần nữa “Dứt điểm toàn bộ”. Lệnh của Kim bắt lính tráng lục soát những thây người chết và bắn họ thêm lần nữa để cho chắc không ai còn sống sót.
Trong các chiến trường của cuộc Chiến tranh Việt Nam, Đại úy Đại đội trưởng nắm giữ cấp bậc cao nhất và có thể có toàn quyền ra những quyết định quan trọng. “Lời nói hay cái nhìn của tôi có thể làm cho nhiều người được tự do hay có thể giết họ trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Nếu tôi nói “thả những người bị bắt ra; họ sống sót, nhưng nếu tôi nói ‘”Này mấy ông, mấy ông giữ làm cái quái gì những người bị bắt,” lính của tôi sẽ mang họ ra nơi khác để bắn bỏ. Kim nói: “Tôi nghĩ những người bị bắt, bị giết chết trong hố bom có thể là những nông dân.”
Kim dở bàn đồ tác chiến của kế hoạch Mắt Rồng (Yong Anh) trong cuốn sách, “Lịch sử Chiến tranh của Quân đội Đại Hàn Trong Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam” và chia sẻ chi tiết nhiều câu chuyện về những trải nghiệm của ông ta ở đó. Kế hoạch Mắt Rồng (Yong Anh) là một “cuộc hành quân quét sạch” du kích Việt Cộng do Tiểu đoàn 1,2 và 3 của Đơn vị Rồng xanh tiến hành từ ngày 9-27 tháng Mười một năm 1966. Kim kể cho chúng tôi nghe về những trải nghiệm của ông trong giai đoạn đầu của kế hoạch … do Tiểu đoàn 2 ( 9-14 tháng 11) thực hiện.
Bắt Đầu Quét Sạch
“Trước cuộc hành quân, Viên chỉ huy Lee Myoung Bok và tôi khảo sát địa điểm hành quân từ máy bay trực thăng. Nhìn xuống khu vực bên dưới, tôi nghĩ rằng nó có vẻ như một vùng đất bình yên nhất trên thế giới. Các ngọn núi được cây cối um tùm che phủ, và các bác nông dân đang lao động với lũ bò trên những cánh đồng lúa của họ.“ Nơi đây sẽ bị chiến tranh tàn phá khủng khiếp trong 19 ngày tiếp đến. Dựa theo cuốn “Lịch sử Chiến tranh của Quân đội Đại Hàn Trong Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam” , nó tiết lộ rằng cuộc giao tranh của kế hoạch ..là hết sức ác liệt vì không thể tiên đoán được sức mạnh kháng cự của địch quân. Vì thế viên Chỉ huy Lee Bong Chul quyết định kéo dài cuộc hành quân mà lúc đầu là kế hoạch 4 ngày và hai giai đoạn đến vô hạn định.
Đó là vào ngày 10 tháng Mười Một năm 1966, ngày thứ hai của kế hoạch Mắt Rồng (Yong Anh), và 4 ngày trước cuộc thảm sát trong hố bom do đại đội của Kim thực hiện. Đại đội 7 đến làng An Tuyet 3, mục tiêu tấn công 13 trên bản đồ tác chiến. Lính của Kim không gặp sự kháng cự nào khi đi ngang qua đó. Tại làng An Tuyet 1, mục tiêu tấn công 14, Kim nói, có một chút ít kháng cự nhưng không có gì nghiêm trọng. Trong cả hai cuốn sách “Lịch sử Chiến tranh của Quân đội Đại Hàn Trong Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam” và “Lịch sử Chiến tranh của Thủy Quân Lục Chiến Ở Việt Nam” bạn sẽ không tìm thấy bất kỳ sự đề cập nào về trận chiến của Đại đội 7. Kim cũng nói thêm rằng ông và lính của ông khó thật sự gọi là bị dân làng hay du kích Việt cộng nằm trong làng bắn. Ngay cả lính của ông không bị thương ở làng An Tuyet. Kim nói, dù rằng không có giao tranh, việc “quét sạch” ngôi làng vẫn diễn ra.
“Quét sạch” là gì” Kim nói, “quét sạch” là đốt trụi tất cả các ngôi nhà trong làng và bắn những người thoát chạy ra khỏi đám cháy. Xóa sạch hoàn toàn một ngôi làng .”
Ngôi làng kế tiếp mà Kim xâm nhập chỉ là một ngôi làng nhỏ, gồm khoảng chừng 30 – 40 căn nhà lợp tranh. Theo sau Trung đội 2 và 3, những người chỉ huy của Đại đội 7 vào làng. Kim chỉ có thể nhìn thấy những căn nhà đang bốc cháy, trẻ con, đàn bà, và những người già bị tàn sát với những cái đầu vỡ nát từng mảnh và những cánh tay bị bức rời ra khỏi cơ thể của họ. Kim cũng thấy một đống xác chết người Việt Nam. Ông đi dọc theo con đường hẹp, ra xa khỏi những ngôi nhà đang bốc cháy, và bước đi cũng chẳbg thể dễ dàng gì nếu như không phải bước qua những đống xác chết của quá nhiều xác người trên đường. Ông ta hét to với những người sĩ quan chỉ huy đang tiến tới gần trong tuyệt vọng. “Đừng giết nữa, đừng giết nữa!”
Kim nói ông ta không thể đếm chính xác số xác chết, nhưng có thể khẳng định mình đã chứng kiến số lượng người chết khủng khiếp của những ngôi làng trên đường. Ông nói thêm rằng, không có cách nào khác để tiến tới trước mà không phải bước qua xác họ. Giả định rằng ông ta không thể nhớ lại chính xác ngày tháng. Kim bắt đầu kể câu chuyện về một người phụ nữ Việt Nam ở An Tuyet (1). (Câu chuyện này về một người phụ nữ Việt Nam có thể là bằng chứng thuyết phục để củng cố thếm chứng cứ của các nạn nhân Việt Nam). Sau khi tập trung dân làng lại một chỗ ở An Tuyet, Kim phát hiện ra một người phụ nữ xinh đẹp, tuổi khoảng 20-25, mặc quần áo tuyền đen. Một trong những người lính của Kim hỏi người phụ nữ chồng của chị ta ở đâu. Người phụ nữ trả lời rằng bà ta không biết. Ngay sau đó, người lính của Kim hét lên, “Đồ chó cái! Đại úy, mụ này phải là vợ của Việt Cộng.”
Ký ức của Kim về người Phụ nữ Việt Nam
Cô ta mặc bộ đồ bên trong màu trắng, được sản xuất ở Pháp. Bởi vì bộ quần áo trong đắt tiền ấy, lính của Kim viện dẫn rằng cô ta là vợ của một cán bộ chỉ huy Việt Cộng. Sau đó, người lính lấy súng dộng vào trán người phụ nữ. Kim hồi tưởng lại tình huống, “Máu chảy dầm dề từ trán của bà ta. Tôi cảm thấy ân hận cho bà ấy. Tôi ra lệnh lính cứu thương chăm sóc cho bà ấy.” Vì do không có thuốc gây tê, người lính cứu thương bắt đầu khâu vết thương chỉ bằng kim và chỉ thông thường. Trong thời gian chăm sóc vết thương, người phụ nữ không hề rên rĩ, mà chỉ đứng với đôi môi cắn chặt lại vào nhau. “Quan sát người phụ nữ, tôi nghĩ “ người phụ nữ oán hận chúng tôi đến mức nào, ngay cả không hề than van” Người phụ nữ gây ấn tượng cho tôi đến mức tôi vẫn còn nhớ việc xảy ra này”.
Trong cả hai cuốn sách “Lịch sử Chiến tranh của Quân đội Đại Hàn Trong Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam” và “Lịch sử Chiến tranh của Thủy Quân Lục Chiến Ở Việt Nam” chỉ rõ rằng Đại đội 7 tấn công mục tiêu 13 và 14, tiến hành cuộc hành quân đánh chặn cho Đại đội 5, và chuyển quân qua làng Vinh Loc 2 vào buổi trưa. Sau đó họ có một cuộc giao chiến ác liệt với Việt Cộng vào đêm đó.
Kim kể thêm một câu chuyện. Ông ta nhớ lại đại đội của mình tấn công một ngôi làng khác ở mạn phía Tây trước cuộc hành quân đánh chặn. Khi đại đội của Kim tiến tới một ngôi làng nào đó không rõ, ông đã thấy một nhóm người Việt Nam ngồi dưới đất, bị lính của ông ta vây quanh. Bởi vì theo lệnh trước đó của Kim, cấm không được giết người thêm nữa, những người lính không giết họ và chỉ tập trung dân làng ngay tại con đường dẫn vào làng. Những người lính đang đợi Kim. Có vẻ như có khoảng 40-50 người bị gom lại. Một số lính của Kim hỏi dân làng tên của họ và cho họ một ít kẹo và thuốc lá. Hầu hết những người này là phụ nữ, trẻ con, và người già. Trước khi rời khỏi làng, Kim ra lệnh cho trung đội võ trang đi theo không được giết họ. Khi ông ta đang đi qua làng, ông ta nghe một tràng súng nổ vang. Kim hét với trung đội “Các anh làm cái quái gì vậy?”. Ngay đó, những người lính nói “Thưa ngài, chẳng có gì đặc biệt cả”. Sau đó có tiếng lựu đạn nổ xoáy vào màng nhĩ . Kim lại hỏi “cái quái gì nữa vậy?”. “Chẳng có gì cả, thưa ngài.” Kim nghe tiếng rên rĩ và kêu khóc của người bị thương, Kim nghĩ rằng sự việc đã quá muộn rồi. Kim thay đổi lệnh. “Làm cho gọn sạch vào!”
Ông ta chứng kiến một người Việt Nam chạy trốn vào ruộng mía, và người của ông ta rượt theo để bắn người chạy trốn. “Một khi đã bắn một thường dân vô tội, chúng tôi không thể không giết tất cả bọn họ“. Bởi vì một người còn sống sót có thể làm nhân chứng về những việc làm sai quấy của chúng tôi, tôi phải ra lệnh như vậy với tư cách là một đại úy, “Dứt điểm toàn bộ.” Điều đó có nghĩa là bắn tất cả bọn họ thêm lần nữa để bảo đảm rằng không ai còn sống sót. Bởi vì tôi chưa bao giờ nghe bất kỳ bằng chứng hay báo cáo nào về những cuộc giết chóc của chúng tôi. Tôi đoán rằng tất cả dân trong làng ắc là đã bị giết hết cả.
Chiến tranh có thể biện minh cho tất cả hành động sai trái trong cuộc chiến?
Câu chuyện của Kim thật sự có ý nghĩa. Nhiều cựu chiến binh trong cuộc Chiến tranh Việt Nam mà tạp chí Hankyoreh21 gặp, viện dẫn rằng không có các cuộc giết chóc có hệ thống do các binh sĩ Đại Hàn trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, “Chỉ khi chúng tôi bị du kích Việt Cộng bắn, và khi chúng tôi thấy dân chúng chạy trốn trong các cuộc hành quân của chúng tôi thì chúng tôi mới bắn họ.”
Kim tiết lộ rằng có nhiều khả năng là có một hệ thống giết chóc. Ông ta nói, “Bất cứ khi nào chúng tôi vào thám sát các làng mạc, chúng tôi luôn luôn tập trung dân làng lại một chỗ. Sự quyết định giết họ hay không hoàn toàn tùy thuộc vào viên đại úy. Bất cứ khi nào binh lính của chúng tôi bị thương hay bị chết, để trả thù, chúng tôi phải giết số dân làng bị tập trung lại. Không phải chỉ có lệnh trực tiếp của viên đại úy, mà cũng còn của binh sĩ nếu họ nghĩ rằng viên đại úy không thể xử lý dân làng, binh lính bắn dân làng. Họ cũng không bao giờ quên bắn thêm lần nữa để cho chắc ăn.” Kim nói rằng câu chuyện của ông ta là câu chuyện của sự thật, nhưng ông ta cũng thêm vào rằng điều đó (giết dân làng) là điều phổ biến hơn là để cho những người Việt Nam bị bắt được thả tự do. Kim nhớ lại một người lính mới không thể bóp cò súng vào một người bị nghi là Việt Cộng trước kia, nhưng giờ đã quen giết người. “Sau khi cậu ta cho những đứa trẻ con Việt Nam 5 -6 tuổi kẹo và thuốc lá, hắn bắn bọn trẻ vào giữa ngực, và sau đó đá chúng ra xa. Tôi ngạc nhiên với hắn và hỏi tại sao hắn lại giết bọn trẻ con vô tội như thế. Cậu ta trả lời “À, bởi vì chúng có thể là trẻ con của Việt Cộng, tôi phải ngăn ngừa sự trả thù trong tương lai của chúng! Một khi lính tráng giết người và chôn những xác chết, mọi người bắt đầu nghĩ rằng giết người trong chiến tranh là điều tự nhiên.”
Trong thời gian chiến tranh, giá trị của cuộc sống con người là gì? Người ta nói rằng những người chưa từng trải nghiệm qua một cuộc chiến, không thể tưởng tượng ra sự thật của chiến tranh. Điều này có cho phép chúng ta biện minh cho những hành vi sai trái của binh lính Đại Hàn trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, nhân danh chiến tranh? Hay chỉ vì nó là quá khứ, chúng ta có thể che giấu tất cả các việc làm sai trái đầy hổ thẹn dưới cái tên lịch sử?

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

"Lợi ích nhóm" và chủ nghĩa tư bản thân hữu - cảnh báo nguy cơ

TS. Vũ Ngọc Hoàng
Ủy viên Trung ương Đảng,
Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương
   Lợi ích chính đáng (của một người, một nhóm) là lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, góp phần và bổ trợ cho lợi ích chung; không mâu thuẫn, không gây thiệt hại cho lợi ích chung. Lợi ích chính đáng luôn là mục tiêu và động lực đối với hoạt động của con người, cần được tôn trọng, bảo vệ và khuyến khích.
Quên điều này, không quan tâm đến lợi ích chính đáng của con người, ngăn cản các lợi ích chính đáng ấy, thì sự lãnh đạo và quản lý xã hội không thể thành công, trước sau cũng nhất định thất bại.
Ảnh minh họa. (Nguồn:
tuyengiao.vn)
Ảnh minh họa. (Nguồn: tuyengiao.vn)
Ngược lại, “lợi ích nhóm” (theo nghĩa tiêu cực) thì mâu thuẫn với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc; gây hại cho lợi ích chung, cho cộng đồng, làm suy yếu và gây tổn thất nghiêm trọng đối với lợi ích chung. “Lợi ích nhóm” là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc hình thành các “nhóm lợi ích”. Đặc điểm của các “nhóm lợi ích” là có sự kết hợp cùng mục tiêu lợi ích, cùng hành động, cùng phân chia lợi ích, giữa những người có nhiều tiền với những người có quyền lực trong nhà nước và trong Đảng cầm quyền. Có tiền chuyển hóa thành có quyền lực. Có quyền lực chuyển hóa thành có tiền. Người có tiền sẽ có quyền lực và người có quyền lực sẽ có tiền. Họ cùng nhau hành động để có quyền lực và có tiền ngày càng nhiều hơn. Đồng tiền cộng với quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng đoạn tổ chức và xã hội. Nhận thức sự quan trọng của thông tin, “nhóm lợi ích” còn móc nối, “kết nạp”, kết hợp với một số nhóm truyền thông không lành mạnh để tác động chi phối dư luận theo hướng có lợi cho “nhóm lợi ích” và xuyên tạc vu cáo những người, những doanh nghiệp không cùng nhóm để tranh quyền lực và lợi ích. “Lợi ích nhóm” sẽ kéo theo và song hành với tham vọng quyền lực cùng với tham vọng tiền bạc.
Ở nước ta, trong lãnh đạo, người đầu tiên công khai hóa và nêu lên sự cần thiết phải đấu tranh với “lợi ích nhóm” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí đã phát biểu tại Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI), và sau đồng chí, một vài đồng chí lãnh đạo khác của Đảng và Nhà nước cũng có nói đến, mặc dù chỉ mới thoáng qua và nhìn chung, chưa có chỉ đạo gì quyết liệt trong việc ngăn ngừa, phòng chống “lợi ích nhóm”. Trong giới khoa học của Việt Nam đã có một số nghiên cứu, nhưng chưa nhiều, và mới ở dạng lý thuyết chung, chưa gắn với thực tế tình hình nước ta. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã có nhiều tài liệu nghiên cứu vấn đề này, gắn với quá trình phát triển của một số quốc gia. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI của Đảng Cộng sản Việt Nam về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã xác định nhiệm vụ quan trọng phải đấu tranh chống “lợi ích nhóm”.
Hiện nay, “lợi ích nhóm” và hoạt động của “nhóm lợi ích” ở nước ta đã và đang diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực quan trọng. Đó là trong quản lý doanh nghiệp nhà nước, quản lý dự án đầu tư, nhất là đầu tư công; trong quản lý ngân sách, thuế, quản lý ngân hàng – tín dụng; trong quản lý các nguồn vốn và chương trình đầu tư về xã hội, trong quản lý tài sản, đất đai, bất động sản, tài nguyên khoáng sản, xuất nhập khẩu; trong công tác cán bộ, quản lý biên chế; trong quản lý các loại cấp giấy phép; kể cả trong các vụ án, trong tham mưu về chủ trương, chính sách và trong điều hành. Đi sâu vào nghiên cứu các vụ tiêu cực, tham nhũng có tổ chức, các vụ việc mà dư luận có nhiều ý kiến thì sẽ có nhiều thông tin cụ thể về tình hình “lợi ích nhóm” ở Việt Nam. Tức là tình hình xấu đã lan rộng, khá phổ biến và khá ngang nhiên, nghiêm trọng đến mức báo động.
“Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có tác hại gì? Trước nhất là nó làm cho đất nước bị tổn thất các nguồn lực và giảm hiệu quả đầu tư, bị kìm hãm không thể phát triển nhanh, thậm chí không thể phát triển bình thường, mất sức sống, nền kinh tế sẽ bị khiếm khuyết, dị tật, kinh tế “ngầm”, thị trường “ảo”, chụp giật, hoang dã, khống chế và “thanh toán” lẫn nhau để giành độc quyền, làm hỏng môi trường phát triển lành mạnh và bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp. Hầu hết các nước bị “bẫy” thu nhập trung bình kéo dài nhiều thập kỷ, thậm chí kéo dài hàng thế kỷ, loay hoay mãi, lùng nhùng mãi, không làm sao thoát ra được để trở thành một quốc gia phát triển, là do “lợi ích nhóm” – nguyên nhân trực tiếp và hàng đầu. Với sự chi phối của các “nhóm lợi ích”, nguồn lực quốc gia bị phân bổ và sử dụng không vì lợi ích chung của quốc gia, mà nhằm hướng phục vụ cho “lợi ích nhóm”; việc bố trí đầu tư, sắp xếp dự án và kể cả ban hành chính sách, điều hành xử lý công việc cũng vậy.
Nước ta sau mấy chục năm công nghiệp hóa, đến nay năng suất lao động xã hội vẫn quá thấp, vào loại thấp nhất khu vực Đông Á, hiệu quả đầu tư rất kém, nợ nần nhiều mà chưa rõ trả bằng cách nào, khi mà hiệu quả đầu tư (sử dụng nguồn vay ấy) quá kém; thu nhập rất thấp, sản phẩm công nghiệp xuất khẩu hầu như không có, các chương trình nội địa hóa không thành công, chủ yếu là làm thuê và cho thuê mặt bằng, nền kinh tế Việt Nam đang rơi vào “bẫy” thu nhập trung bình thấp. Nhìn lại nguyên nhân các nước bị “bẫy” thu nhập trung bình và nhìn lại tình hình nền kinh tế của ta thì đáng lo ngại.
Hậu quả thứ hai do “nhóm lợi ích” gây ra là nhất định sẽ chệch hướng khỏi mục tiêu xã hội chủ nghĩa chân chính (và cũng xa lạ với chủ nghĩa tư bản hiện đại), đất nước đi theo một con đường khác, sang CNTB thân hữu, đó là con đường không có tiền đồ và nguy hiểm, không có tự do và dân chủ (vì bị nhóm lợi ích độc quyền về kinh tế và chính trị thâu tóm, lũng đoạn), để lại hậu quả lâu dài mà dân tộc phải gánh chịu. Chúng ta mong muốn xây dựng một xã hội trên nền tảng của các giá trị nhân cách thì “nhóm lợi ích” lại thúc đẩy đồng tiền cộng với quyền lực chiếm địa vị thống trị. Thực chất “nhóm lợi ích” là đồng tiền (tư bản) chi phối quyền lực, trực tiếp tham gia giành và chiếm giữ quyền lực, làm cho quyền lực không còn là của nhân dân, cũng có nghĩa là chệch khỏi mục tiêu XHCN (chân chính). “Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có từ rất sớm, ít nhất là từ buổi đầu của thời kỳ phong kiến; nhưng sang thời kỳ TBCN thì nó phát triển và diễn biến phức tạp hơn, kể cả trình độ, quy mô và tính chất. Trong Chủ nghĩa tư bản “hoang dã”, “mông muội”, các “nhóm lợi ích” hoạt động phổ biến, công khai, tích lũy và tập trung tư bản bằng mọi thủ đoạn, kể cả bạo lực và giết người.
Nhân đây, trước khi nói đến hậu quả thứ ba do “nhóm lợi ích” gây ra, xin nói rõ hơn về CNTB thân hữu. Suốt mấy trăm năm nay, qua quá trình cạnh tranh, qua đấu tranh xã hội, chịu sự tác động của các quy luật khách quan về kinh tế và xã hội, CNTB buộc phải liên tục điều chỉnh, nhờ vậy mà tiến bộ dần. Ngày nay CNTB hiện đại đã có những tiến bộ đáng ghi nhận; họ đã tạo ra nhiều thành tựu và một số nước phát triển cao, tính chất xã hội hóa cao hơn, đang dần dần từng bước tạo ra các nhân tố mới của xã hội tương lai (XHCN). Đồng thời với quá trình tiến hóa tự nhiên ấy, trong thực tiễn thế giới tư bản còn xuất hiện một khuynh hướng khác, một khuynh hướng không lành mạnh, không bình thường, một khuynh hướng tha hóa, đó là CNTB thân hữu, một loại hình nguy hại cho sự phát triển của các quốc gia. Nước nào rơi vào “CNTB thân hữu” thì không ngóc đầu lên được. CNTB thân hữu thực chất là sự bành trướng, biến dạng, biến tướng, sự thoái hóa cao độ của “nhóm lợi ích” gây ra. Đây là một loại hình rất lạc hậu, khác xa so với CNTB hiện đại (CNTB hiện đại cũng có nhiều mặt tiến bộ, mà chúng ta cần nghiên cứu để học tập kinh nghiệm của họ) và tất nhiên là càng xa lạ với CNXH văn minh.
CNTB thân hữu còn có các cách gọi khác nhau, là “CNTB lợi ích”, “CNTB bè phái”, “CNTB bè cánh”, “CNTB lũng đoạn”… CNTB thân hữu không phải là một giai đoạn của CNTB, mà là một hiện tượng, một khuyết tật, một sự tha hóa của CNTB. Đây là loại hình “phát triển” mà trong đó các doanh nghiệp dựa vào ưu thế về mối quan hệ với những người có quyền lực để tạo ra nguồn thu tài chính cho cá nhân và đơn vị mình. Các doanh nghiệp này tập trung đầu tư vào “quan hệ”, vào “quan chức” để từ đó mà dùng quyền lực tạo ra lợi nhuận siêu ngạch. Đặc trưng của “CNTB thân hữu” là có sự cấu kết, xâm nhập lẫn nhau giữa nhóm đặc quyền kinh tế và nhóm đặc quyền chính trị, người kinh doanh cũng đầu tư vào quyền lực và người có quyền lực cũng tham gia “kinh doanh”, làm quan chức để làm giàu, họ cùng nhau bóc lột “mềm” toàn xã hội, bóc lột cả dân tộc, họ thâu tóm các nguồn tài chính, của cải và thâu tóm quyền lực chính trị, biến bộ máy nhà nước thành công cụ của một nhóm người (nhân danh nhà nước và đảng cầm quyền) thực hiện độc quyền kinh tế kết hợp với độc quyền chính trị. Nói họ thực hiện bóc lột “mềm” là vì không có hình thức tổ chức sản xuất – kinh doanh cụ thể để trực tiếp bóc lột giá trị thặng dư của lao động, sự bóc lột của họ tinh vi hơn, nhưng tai hại hơn, gây hậu quả rất nghiêm trọng. Sự bóc lột ấy thực hiện thông qua các dự án, các chương trình đầu tư; thông qua các cơ chế, chính sách (không phục vụ cho toàn xã hội mà phục vụ cho một nhóm người) và thông qua cách điều hành, cách quản lý mập mờ, không minh bạch, gây tiêu cực, tham nhũng… Họ thu lợi thông qua các công ty “sân sau”, công ty con, công ty cháu, công ty nhánh của gia đình, của “cánh hữu”. Nó ra đời trong (và gắn với) CNTB “man rợ”, CNTB “dã man”, chứ không phải CNTB văn minh.
Rất đáng lưu ý là, “CNTB thân hữu” không chỉ có trong xã hội tư bản (yếu kém và tha hóa) mà còn có trong các xã hội khác, ở các nước mới bắt đầu vận hành nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường, khi mà ở đó “lợi ích nhóm”, “nhóm lợi ích”, “lợi ích bè phái”, “tính thân hữu vì lợi ích” đang nổi lên và hoành hành; khi mà đảng cầm quyền cùng nhà nước do nó lãnh đạo bị suy thoái về đạo đức, tham nhũng trở nên phổ biến và pháp luật không được tuân thủ trong sự quản lý đất nước, quản lý xã hội (tức là trình độ quản trị quốc gia yếu kém). Thực tiễn thế giới cho thấy, CNTB thân hữu kìm hãm sự phát triển của quốc gia, làm cho đất nước rơi vào “bẫy” thu nhập trung bình hàng thế kỷ không ra được, làm băng hoại đạo đức xã hội (do lệch chuẩn giá trị); làm méo mó, biến dạng các chủ trương đường lối; gây nên các khuyết tật của nền kinh tế và của xã hội, để hậu quả lâu dài. CNTB thân hữu xuất phát từ các nguyên nhân, nguồn gốc: “Lợi ích nhóm” tiêu cực, các dạng Maphia, tham nhũng có tổ chức, sự suy thoái đạo đức của cán bộ có chức quyền, không có cơ chế kiểm soát quyền lực, để quyền lực tha hóa và không có cơ chế tốt để dân làm chủ, để nhân dân có quyền lực thật sự, trình độ và năng lực quản trị quốc gia yếu kém, luật pháp còn nhiều kẽ hở và việc chấp hành pháp luật không nghiêm, bảo kê, bao che và dung túng cho các sai phạm. Ở đâu và khi nào mà “nhóm lợi ích” không bị ngăn chặn có hiệu lực, hiệu quả, mà để nó phát triển mạnh, lan tràn, hoành hành, vai trò của nhà nước lành mạnh bị vô hiệu hóa, thì ở đó, tất yếu sẽ kéo theo, CNTB thân hữu xuất hiện và tồn tại, không thể tránh được, không thể khác được, dù có muốn hay không.
Lâu nay Đảng ta đã nhiều lần lưu ý nguy cơ chệch hướng. Nếu chệch hướng thì sẽ chệch đi đâu? Chắc không thể trở lại chế độ phong kiến, vì trình độ phát triển đã vượt qua. Cũng không thể chệch sang CNTB phát triển văn minh, vì trình độ phát triển của nước ta chưa đạt đến, và nếu vậy thì có ý kiến cho rằng cũng không đáng sợ, bởi chúng ta sẽ gần hơn với CNXH. Khả năng lớn nhất, hiện hữu, và cũng đáng sợ nhất, nguy hiểm nhất, là chệch hướng sang CNTB thân hữu, con đường nguy hại cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng nguy hại cho chế độ chính trị xã hội.
Trở lại hậu quả của “nhóm lợi ích”. Hậu quả thứ ba do “nhóm lợi ích” gây ra là sự suy đồi về văn hóa, đạo đức xã hội, do hệ giá trị bị đảo lộn (đồng tiền và quyền lực chiếm vị trí trung tâm và cao nhất, trong khi nhân cách bị đẩy sang bên cạnh và xuống hàng thứ yếu) và do tha hóa quyền lực (tác nhân mạnh nhất). Việc phân hóa giàu – nghèo sẽ ngày càng lớn, tạo ra bất bình đẳng và mâu thuẫn xã hội. Hỏng văn hóa và gây ra mâu thuẫn xã hội thì hậu quả khôn lường, thâm sâu và lan tỏa rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến nền tảng xã hội và sức mạnh nội sinh của dân tộc.
Hậu quả thứ tư do “nhóm lợi ích” gây ra là làm lẫn lộn thật - giả, đúng - sai, khác nhau giữa lời nói và việc làm, đường lối đúng không vào được cuộc sống…; làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng cầm quyền và đối với nhà nước, tức là làm hỏng nền tảng chính trị, dẫn đến mất ổn định chính trị, mất sức mạnh của một quốc gia, và từ đó các thế lực xâm lăng từ bên ngoài có thể lợi dụng thời cơ để xâm lấn, chèn ép, dẫn đến nguy cơ mất độc lập, thậm chí là mất nước.
Hậu quả thứ năm do “nhóm lợi ích” gây ra là chính sách sử dụng cán bộ méo mó, phát triển nạn chạy chức chạy quyền, “buôn quan”, “buôn vua”, sắp xếp cán bộ trên cơ sở “quan hệ, tiền tệ, hậu duệ”, chứ không phải sử dụng người có tài đức, làm hư hỏng đội ngũ cán bộ; là sự phát triển, sự gia tăng các hoạt động bè phái, mất đoàn kết nội bộ, phá vỡ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền, từ đó dẫn đến Đảng cầm quyền mất vai trò lãnh đạo, tan rã hoặc bị “nhóm lợi ích” thâu tóm làm thay đổi hoàn toàn về bản chất, không còn là Đảng phục vụ nhân dân, và nhà nước cũng hư hỏng, biến chất, không còn là nhà nước của dân, mà thành bộ máy cai trị, tham nhũng và bóc lột nhân dân, từ đó, nòng cốt chính trị đổ vỡ, bất ổn định chính trị từ bên trong.
Tình hình “nhóm lợi ích” ở Việt Nam đã đến mức độ nào? đang và sẽ đi về đâu? Như chúng ta đã biết, trước đây, trong lịch sử nhiều lần các triều đại phong kiến Việt Nam phải sụp đổ, kể cả có lúc phải chia cắt đất nước là do “nhóm lợi ích” gây nên. Ngày nay, tuy chưa có các công trình nghiên cứu cấp quốc gia một cách thật đầy đủ và khoa học về “lợi ích nhóm ở Việt Nam”, tuy nhiên, qua thông tin, qua dư luận xã hội, qua nghiên cứu của một số chuyên gia và cảm nhận của nhiều người, thì tình hình “lợi ích nhóm” đã khá nghiêm trọng, tương đối phổ biến, ở cấp nào cũng có, cấp cao hơn thì bệnh nặng hơn, ở lĩnh vực nào cũng có, kể cả ở những nơi mà xưa nay trong tiềm thức xã hội thường cho rằng đó là nơi luôn trang nghiêm, trong sạch. “Lợi ích nhóm” cũng chính là một kiểu tham nhũng nghiêm trọng nhất, tham nhũng có tổ chức. Mặc dù Đảng và nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, nhưng thực tế xã hội vẫn diễn ra một tình hình rất đáng lo ngại là ở nước ta đang có nguy cơ chuyển biến dần dần sang “CNTB thân hữu”, do hoạt động của “nhóm lợi ích” gây nên. Thậm chí có ý kiến cho rằng nước ta đã rơi vào trong CNTB thân hữu rồi(?). Ở các nước, việc quản lý nhà nước và việc điều hành kinh tế tách biệt rành mạch, và ở họ doanh nghiệp nhà nước cũng ít hơn ta. Còn ở ta, với đặc điểm cơ quan nhà nước vừa quản lý về mặt nhà nước, vừa trực tiếp điều hành kinh tế, doanh nghiệp nhà nước nhiều, lại yếu kém trong quản lý, không ít trường hợp đằng sau cái vỏ doanh nghiệp nhà nước là tư nhân núp bóng, vì vậy, đề phòng “lợi ích nhóm” ở Việt Nam còn phức tạp hơn các nước, nếu không đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả. Đây là nguy cơ lớn nhất đang hiện hữu dần, đe dọa sự phát triển lành mạnh của đất nước và sự tồn vong của chế độ theo định hướng XHCN (lành mạnh). Nguy cơ này bao trùm, đáng lo hơn bất kỳ sự đe dọa nào, tác động chi phối chính, làm trầm trọng các nguy cơ khác, tạo điều kiện cho các nguy cơ khác phát triển và gây tác hại. Đây là điểm lớn nhất, cốt lõi nhất của cuộc đấu tranh về quan điểm lập trường; là trọng tâm trong chống “tự diễn biến”. Nếu Đảng và Nhà nước ta không ngăn chặn được hoạt động của “nhóm lợi ích”, để nó tiếp tục phát triển, dẫn đến lũng đoạn ngày càng lớn hơn thì sự phát triển của đất nước bị nguy khốn và chế độ chính trị cũng biến chất, cũng thay đổi theo chiều hướng xấu, chắc chắn không còn là con đường XHCN chân chính nữa, mà sẽ là nơi phát triển CNTB thân hữu, mong muốn của hàng triệu đảng viên cộng sản và nhân dân đã chiến đấu và hy sinh xương máu sẽ trở nên xa vời và vô vọng, mong muốn thiết tha của Bác Hồ cũng không thực hiện được, Đảng chân chính sẽ không còn và Nhà nước sẽ biến chất, dân tộc sẽ bị bóc lột, bị tước đoạt quyền lực và tài sản của cải, chế độ xã hội sẽ là một chế độ không có dân chủ và tự do, không có bình đẳng. Lúc này, hơn lúc nào hết, các cấp ủy và toàn Đảng phải nhận thức rõ nguy cơ và quyết tâm bảo vệ quyền lợi dân tộc, thành quả cách mạng và bảo vệ chính Đảng ta, không để Đảng bị “nhóm lợi ích” và CNTB thân hữu thao túng, làm hư hỏng, biến chất, dẫn đến đổ vỡ.
Chống “lợi ích nhóm” là công việc hết sức khó khăn, phức tạp, vì không rõ “chiến tuyến”, thường ở trong trạng thái lẫn lộn trắng đen, trong nó có ta và trong ta có nó, vừa là ta lại vừa là nó. Ngoài việc cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc tình hình và nguy cơ, cần thảo luận rộng rãi trong Đảng và trên công luận; Đảng và cả hệ thống chính trị phải kiên quyết đấu tranh chống “lợi ích nhóm”, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, hết sức hệ trọng và cấp bách; tập thể lãnh đạo từ cấp cao nhất cần có quyết tâm chính trị và thật sự gương mẫu trong việc đấu tranh chống “lợi ích nhóm”, sử dụng tất cả các biện pháp có thể; khẩn trương nghiên cứu ban hành bổ sung, điều chỉnh các cơ chế kiểm soát quyền lực (bằng quyền lực nhà nước, bằng quyền lực của nhân dân và bằng công luận); cơ chế thực thi dân chủ rộng rãi, minh bạch thông tin và qui định rõ trách nhiệm giải trình, điều trần; tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho báo chí vào cuộc, cho nhân dân thực hiện quyền tham chính; đổi mới căn bản công tác cán bộ, thực hiện tranh cử trước nhân dân đối với các chức danh bầu cử và thi tuyển công khai đối với các chức vụ quản lý, đồng thời thực hiện cơ chế giám sát hoạt động, kết quả công việc, thi hành việc bãi miễn và thay đổi vị trí công tác của cán bộ khi xét thấy không có lợi cho cuộc đấu tranh chống “lợi ích nhóm”./.

Tại sao Đường Tăng vô dụng lại trở thành người lãnh đạo, còn Tôn Ngộ Không tài phép thì lại là kẻ làm công?

Tại sao Đường Tăng vô dụng lại trở thành người lãnh đạo, còn Tôn Ngộ Không tài phép thì lại là kẻ làm công? 4 điều rút ra từ bộ phim Tâ...